Dinh Cậu và truyền thuyết thần Long cứu nạn ngư dân ở Phú Quốc

Dinh Cậu nằm cách thị trấn Dương Đông 200 m về phía Tây, trên một ghềnh đá quay mặt ra biển, ở cửa sông Dương Đông.Không rõ Dinh Cậu có từ năm nào (có nguồn cho rằng có từ thế kỷ 17) , chỉ biết ngôi dinh hiện nay được xây dựng ngày 14 tháng 7 năm 1937, và được trùng tu ngày 14 tháng 7 năm 1997.

Đường lên Dinh Cậu là 29 bậc thang bằng đá. Trên đường, có một miếu Thổ Thần nhỏ. Sân dinh được láng bằng xi măng có đặt bàn thờ Ông Thiên. Bên hành lang là hàng cột đúc bằng xi măng với những câu liễn đắp nổi bằng chữ Hán như: "Tọa đại thạch đầu quy danh hiển" (Dinh Cậu nổi tiếng tọa lạc ở đầu của mõm đá giống con rùa), "Vạn cổ anh linh thông tứ hải" (Từ xưa anh linh của Dinh Cậu đã vang khắp bốn biển), "Chấn phong bình lượng bảo lương dân" (Dinh Cậu như tấm bình phong bảo vệ dân lành), "Phong điếu vũ thuận dân an lạc" (Nhờ ơn cậu mà mưa thuận gió hòa dân cư an lạc)...

Mặt chính điện nhìn ra biển cả mênh mông. Tường Dinh được xây dựng bằng xi măng, trên nóc mái có gắn "lưỡng long tranh châu" bằng sứ. Trong chánh điện có khánh thờ Chúa ngọc nương nương và khánh thờ tượng hai Cậu (cậu Tài và cậu Quý)[4], là những thần nhân bảo vệ ngư dân vùng biển đảo.

Hàng năm, vào ngày 15, 16 tháng 10 âm lịch, nhân dân mở hội lớn tại dinh, có rất đông người đến tham dự.

Đúng như những lời đồn đại Dinh Cậu tọa lạc tại một vị trí rất đẹp trên một ghềnh đá có hình thù kỳ quái vương ra biển. Dinh Cậu sừng sững hiên ngang trước sóng to gió lớn. Ghềnh đá thiên tạo như trái núi hình thù rất lạ mắt, ba bề sóng vỗ, xung quanh là bãi đá lô nhô. Đỉnh núi được điểm tô bằng ngôi miếu cổ, mái ngói rêu phong. Trên nóc có đôi dòng cầu nguyện bằng sứ men lam. Dinh Cậu nằm dưới tán sộp cổ thụ, tuổi hơn thế kỷ, bề rộng như cái lồng xanh cả bốn mùa. Dinh Cậu hiện ra đầy  huyền ảo, ấn tượng trước mắt du khách. Có lẻ vì điều đặc biệt này không nơi nào có được nên Dinh Câu được xem như là biểu tượng đặc trưng của đảo Phú Quốc.

Chúng ta bước lên đúng 29 bậc thang uốn lượn uẩn khuất giữa hai bên vách đá để lên miếu cổ Dinh Cậu. Trên đường lên Dinh chúng ta bắt gặp miếu thổ thần nhỏ và một hàng rào bằng bê tông rất vững chãi bao quanh Dinh. Sân được lán bằng xi măng có đặt bàn thơ Ông Thiên. Bên hành lang di tích là hàng cột được đút bằng xi măng với những câu liễn đắp nổi bằng chữa Hán như:

“Vạn Cổ Anh Linh Thông Tứ Hải.
Chấn phong bình lượng bảo lương dân.”

Do sống giữa biển khơi, mưu sinh chủ yếu bằng nghề đánh bắt nên từ xưa, ngư dân Phú Quốc đã lập nên nhiều miếu thờ Bà, thờ ông Nam Hải và thờ Cậu. Đây được xem là những nhân vật giàu lòng nhân ái, sẵn sàng cứu khổ, cứu nạn cho người đi biển.

Theo lời những bậc cao niên trên đảo, Dinh Cậu đã có từ rất lâu, tọa lạc trên một ghềnh đá vươn ra biển, lúc nào cũng sừng sững, hiên ngang trước sóng to gió lớn nhưng cũng rất huyền diệu, lung linh. Nơi đây có Thạch Sơn Điện với những nét kiến trúc cổ  mà người dân Phú Quốc xưa quen gọi là Miếu thờ Long Vương. Chuyện kể rằng, ngày xưa cư dân Phú Quốc chủ yếu sống bằng nghề chài lưới, nhiều ngư dân ra khơi gặp sóng dữ đã mãi mãi không về. Thế rồi một ngày nọ bỗng nổi lên một mũi đá ngay cửa biển. Cho là điềm linh ứng, nhân dân đã cất một ngôi miếu để cầu mong được thần linh che chở. Ban đầu làm bằng cây lá, trải qua nhiều lần trùng tu, đến nay dinh đã khang trang, bề thế hơn nhưng vẫn giữ được nét cổ kính như xưa.

Theo con đường lát đá thoai thoải dẫn lên Dinh Cậu, từ bãi cát trắng dưới chân gành đá leo lên 29 bậc đá là đến miếu thờ. Uy nghi trên nóc dinh là hình ảnh “lưỡng long tranh châu”. Vào bên trong, du khách sẽ được chiêm ngưỡng nhiều tuyệt tác về kiến trúc cổ với những đường nét sắc sảo, các hiện vật quý giá gắn liền với truyền thống lịch sử hình thành cư dân trên đảo. Ở giữa chánh điện của dinh thờ Chúa Ngọc nương nương và tượng thờ  “Cậu Tài” và “Cậu Quý” -  những đấng linh thiêng cai quản vùng sông nước và luôn bảo vệ ngư dân vùng biển đảo. Trước mỗi chuyến ra khơi hay vào dịp lễ tết, người dân đảo lại đến thắp nhang cầu mong cho những chuyến đi biển được bình an. Hằng năm, người dân Phú Quốc lấy ngày 15 và 16.10 âm lịch làm ngày lễ hội cúng dinh. Vào ngày lễ hội,  ngư phủ tụ hội về đây để cầu mong mưa hòa gió thuận, trời yên biển lặng, được mùa tôm cá.

1. Giai Thoại Sóng Long Vương cứu người
 
Chuyện xưa kể rằng, ngư phủ đi biển gặp bão chỉ cần chạy tàu vào cửa biển Dương Đông trú ẩn sẽ thoát nạn. Rất nhiều lần người ta đứng tại cửa Dương Đông chứng kiến cuồng phong thịnh nộ quật tan nát những chiếc tàu bên ngoài cửa biển, trong khi những chiếc tàu neo đậu trong cửa biển vẫn bình yên vô sự. Từ hiện tượng đó, người ta tin rằng có linh thiêng ngự trị nơi cửa biển nên cuồng phong không dám mon men gần bờ. Người ta lại chứng kiến nhiều lần, những chiếc tàu gặp nạn ở tít khơi xa được một ngọn sóng lớn nâng lên cao rồi đẩy vào tận bờ cửa Dương Đông một cách an toàn.

Ông Nguyễn Khải, 57 tuổi, là một “ngư phủ từ khi còn là trứng nước” – tự nhận như vậy – kể rằng: “Tôi tự hào là cư dân rặt ròng của. Tổ tiên tôi lập nghiệp trên đảo này từ xưa. Sống trên đảo, chúng tôi cứ bám mặt biển mà thu lượm của trời. Cha tôi kể rằng, ông cố tôi, ông nội tôi và chính ông từng chứng kiến và được sóng Long Vương cứu nạn ở Dương Đông.

Cha tôi kể, hồi năm 1932, ông đi đánh lưới rùng thì gặp bão. Con tàu bị đánh nát tả tơi, gãy bánh lái. Bạn trên tàu chỉ còn biết chắp tay khấn cầu đấng linh thiêng. Bỗng dưng xuất hiện một ngọn sóng cao hàng chục mét. Ngọn sóng nâng con tàu của cha tôi lên tận trên đỉnh rồi đưa vào bờ. Từ mạn tàu nhìn xuống hướng đảo, cha tôi còn trông thấy mấy ngọn cây cổ thụ nhỏ xíu như ngón tay. Vậy mà, ngọn sóng hạ con tàu xuống bãi cát êm ru. Mọi người thoát chết. Sau chuyến biển đó, tháng nào cha tôi cũng đến miếu Long Vương cúng bái”.

Ông Khải cũng khẳng định, Dinh Cậu là do những người dân địa phương đời sau quen gọi. Tên chính thức hồi xưa của ngôi miếu là “Long Vương thần miếu”, tức miếu thờ Long Vương. Ban đầu, ngư dân lập ngôi miếu trên mỏm đá ven bờ Dương Đông để thờ “sóng Long Vương”.

Theo mô tả, “sóng Long Vương” có hình thù như con rồng nên ngư phủ tin rằng, đó là hiện thân của Long Vương cứu người gặp nạn trên biển.

Thuở ban đầu, miếu được cất bằng vật liệu thô sơ trên đỉnh một hòn đá lớn nhất trong quần thể các hòn đá nơi cửa Dương Đông được gọi là hòn Quy vì có hình thù giống đầu một con rùa. Ngôi miếu không có biển danh môn nhưng ai cũng gọi là miếu Long Vương. Quần thể đá này nằm chơi vơi nơi mép nước. Hòn lớn nhất cao khoảng 30 mét so với mặt nước biển. Cạnh hòn Quy còn có một số mỏm đá vôi lớn mang hình thù kỳ dị mà người ta liên tưởng đó là bầy cá sấu.

2. Ông “cậu” là ai?

Nhiều bậc kỳ lão được sinh ra trên đảo khẳng định rằng, hồi đầu thế kỷ XX có một người đàn ông lạ xuất hiện tại ngôi miếu Long Vương. Lúc đầu, ông tá túc trong miếu, tự làm các công việc quét dọn, nhang đèn. Ông tịnh khẩu, không nói chuyện mà chỉ ra dấu nên không ai biết quê quán, gốc gác ở đâu. Mọi người chỉ đoán ông là người từ đất liền ra đảo tìm chốn tu hành.

Một thời gian sau, ông ta không ở trong miếu nữa mà chui xuống hang dưới lòng hòn đá lớn quy ẩn. Ông dùng đá tự lấp cửa hang. Nhiều người lo ông chết đói đã đem cơm chay đến đặt trước cửa hang nhưng đến ngày sau vẫn thấy còn nguyên. Ông ta ẩn tu suốt 2 năm liền như thế.

Một ngày nọ, người ta thấy ông ra khỏi hang, trở lên miếu Long Vương tiếp tục công việc của một thủ từ. Lần xuất hiện này, ông chịu nói chuyện nhưng rất kiệm lời. Mỗi khi mở miệng, ông thường tiên tri hậu vận cho những người đến miếu Long Vương lễ bái. Vào những ngày 15, 16 tháng 10 âm lịch hàng tháng, ông ta tự ngồi giá, lên đồng để phát lộc cho các ngư phủ đến cúng.

Đến những ngày 15, 16 tháng 10 âm lịch hàng năm ông tổ chức lễ cúng Long Vương. Trong buổi cúng, ông cũng để lên đồng ban phát bùa cầu an, phát tài. Từ đó, dân quanh vùng gọi ông là “Cậu”.

Nhiều người dân trên đảo đánh trúng luồng cá trở nên giàu có đã tin rằng nhờ lộc Cậu cho. Họ bỏ tiền ra trùng tu và xây lớn ngôi miếu Long Vương.

3. Cái tên “Dinh Cậu” bắt đầu xuất hiện từ đó

Khoảng năm 1940, một toán lính Pháp trên đảo bất thần ập vào ngôi miếu Long Vương bắt ông Cậu đưa đi. Từ đó không ai trông thấy ông nữa. Có người cho rằng, sau đó, lính Pháp có thả ông ra. Là “người trời” lại bị lính Pháp bắt, ông Cậu giận dỗi bỏ dương trần trở về trời trú ngụ. Thế là một số người đến miếu không cầu khấn Long Vương phò trì nữa mà chỉ cầu khấn ông Cậu.

Dần dà, người ta quên hẳn nơi đó từng là ngôi miếu Long Vương. Sau khi trùng tu những người đời sau khắc hẳn lên cửa miếu hàng chữ “Dinh Cậu”. Đó là nguyên nhân dẫn đến ngộ nhận về vị linh thần trấn ngôi miếu.

Ngày nay, nơi đó không chỉ mỗi Dinh Cậu (tức miếu Long Vương) là kiến trúc duy nhất. Hang đá mà ông Cậu quy ẩn, tịnh tu được gọi là “thạch sơn động”. Chiếc cổng dưới chân hòn đá lớn có tấm biển ghi “Dinh Cậu”. Ven cổng lên núi là một ngôi miếu Thổ thần. Đường lên miếu gồm 29 bậc đá. Bên ngoài ngôi miếu thờ Long Vương là bàn thờ “thông thiên”. Bên trong ngôi miếu thờ Long Vương không phải là tượng cốt của Long Vương, của ông Cậu mà là 3 nhân vật thuộc về tín ngưỡng… Chăm tức Bà Chúa Ngọc cùng 2 cậu con trai là Cậu Tài, Cậu Quí.

Hiện nay, nhiều giai thoại huyễn hoặc liên quan đến Dinh Cậu được du khách lưu truyền rộng rãi từ Nam chí Bắc. Hầu hết những giai thoại “hiện đại” ấy đều xuất phát từ việc thờ sai đối tượng trong miếu Long Vương. Giai thoại hiện đại này cho rằng, linh thần Dinh Cậu là “Cậu Tài, Cậu Quí”.

Theo tín ngưỡng dân gian, Cậu Tài, Cậu Quí rất mê cờ bạc, đá gà. Chính vì nghĩ Dinh Cậu thờ “Cậu Tài, Cậu Quí” nên rất nhiều “hảo hán cờ bạc” từ Nam chí Bắc đã đua nhau về đây cúng kiếng. Trong số đó có rất nhiều gương mặt cộm cán trong giới giang hồ như Năm C., D. “hà”, O. “hà”, H. “sự”, M. “xăng”, Ch. “lò thiêu”… từng đến cúng tiến 2 Cậu ít nhất một lần.

Nhiều đại gia đầu tư sòng bạc ở tuyến giáp biên Campu chia – Việt Nam cũng lò mò đến cúng bái, vái lạy sì sụp vào các ngày rằm trong tháng. Hiện tượng lên đồng cho số đề, cá cược bóng đá cũng âm ỉ, ngấm ngầm xảy ra ở Dinh Cậu. Một nét tín ngưỡng cầu an của ngư dân đã bị ô uế.

4. Truyền thuyết về Gia Long bôn tẩu Tây Sơn

Sau khi khấn xong, bỗng có một ngư phủ trên bờ trông thấy tàu mắc cạn đã dùng dây rừng kéo tàu ra khỏi chỗ nông và đưa mọi người lên bờ an toàn. Ngư phủ được Nguyễn Ánh phong ngay cho chức “đội”. Nơi đó được Nguyễn Ánh đặt tên là mũi Ông Đội.

Để xác tín thông tin, chúng tôi đến tận mũi Ông Đội. Đó là một mũi đá nhô ra biển nằm chơi vơi nơi hẻo lánh, hoang sơ vẫn còn khỉ rừng cư trú. Để đến đó chúng tôi phải thuê tàu từ bãi Sao (An Thới) chạy men theo vách đá hơn nửa giờ.

Quả nhiên, tại đây vẫn còn một số “hiện vật” của Nguyễn Ánh như: Ngai vua, giếng ngự, dấu giày và một ngôi miếu thờ. Tuy nhiên “hiện vật” được gọi là “Ngai vua” chỉ là một phiến đá có hình thù giống chiếc ghế bành; giếng ngự được người dân địa phương xây xi măng bao quanh chỉ là một mạch nước khe chảy ra từ lòng đảo; dấu giày in trên đá trông giống như có bàn tay chạm khắc của con người. Riêng ngôi miếu thì có vẻ như đã tồn tại nơi đó rất lâu.

Rất nhiều người khẳng định, tuy nhiều lần trùng tu nhưng những câu liễn chữ Hán vẫn còn còn được chạm khắc lại theo nguyên nghĩa của ngôi miếu cũ xưa như: “Tọa đại thạch đầu quy danh hiển” (ngôi miếu nổi tiếng có vị trí tọa lạc ở mỏm đá lớn giống đầu con rùa). “Vạn cổ anh linh thông tứ hải” (Ngôi miếu linh thiêng vang khắp bốn biển từ xưa). “Chấn phong bình lượng bảo lương dân” (Ngôi miếu như tấm bình phong bảo vệ dân lành). “Phong điếu vũ thuận dân an lạc” (Giữ mưa thuận gió hòa cho dân cư an lạc). Từ ý nghĩ những câu liễn này cho thấy, và căn cứ vào những câu chuyện truyền khẩu của các bậc cao niên sinh sống trên đảo thì ngôi miếu trên Dinh Cậu chỉ thờ Long Vương – một tín ngưỡng dân gian lưu truyền của ngư dân vùng biển.

Những cư dân địa phương cho biết, 3 lần trùng tu gần nhất được ghi nhận là ngày 14/7/1937, ngày 14/7/1997 và năm 2009.

Cuộc trùng tu năm 1937, miếu được cất thành mái tol, vách vôi, trên biển có ghi “Thạch Sơn động”. Cuộc trùng tu ngày 14/7/1997, người ta vẫn ghi trên biển là “Thạch Sơn động” mặc dù nơi cổng dưới chân “núi” lại ghi là “Dinh Cậu”. Lần trùng tu gần nhất là năm 2009, trên biển ngôi miếu bỗng xuất hiện dòng chữ “Dinh Cậu” cho đến ngày nay. Kể từ sau lần trùng tu năm 1997, trên bàn hương án mới xuất hiện cặp tượng thờ Cậu Tài, Cậu Quí và Chúa Ngọc.

Thiết nghĩ, các nhà nghiên cứu của địa phương cần xác định rõ và thiết lập một giai thoại nhất quán cho Dinh Cậu để khách du lịch có cơ hội chiêm nghiệm một nét văn hóa của đời sống ngư phủ xưa trên đảo. Ngoài ra, chính quyền địa phương cũng cần xem xét lại “kịch bản” cúng cầu ngư, cầu an nguyên mẫu của Dinh Cậu, không để một lễ hội của ngư dân biến thành dị bản. Hoặc, ít nhất, không biến Dinh Cậu thành một địa chỉ… xin số đề, cầu thắng độ bóng đá.
Tổng Hợp

Popular posts from this blog

Giờ Lễ Tại Nhà thờ Dương Đông - Phú Quốc

White Lotus Resort Phú Quốc không gian nghỉ dưỡng thiên nhiên

Khám chữa bệnh từ thiện cho hơn 700 người dân nghèo huyện Phú Quốc